Nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng trầm ngâm khi tôi hỏi lại câu chuyện về người con gái bị mất tích của ông cách đây 20 năm: “Chuyện đã cũ rồi, cũ mà mới. Cũ mà vẫn hy vọng mỏi mòn. Nhắc đến thêm đau lòng. Đau lòng rồi lại hy vọng một ngày nào đó trong cuộc đời được gặp lại con gái thân yêu. Đó cũng là lý do gia đình chúng tôi ở lại nước Nga cho đến tận ngày hôm nay vẫn không trở về. Tôi vẫn có hy vọng rằng, trong những ngày còn lại của đời mình, ở đâu đó trên một con phố của đất nước Nga xa xôi mà gần gũi, chúng tôi sẽ được gặp lại cô con gái bé bỏng ngày nào, được ôm lấy con trong vòng tay cho thỏa nỗi nhớ thương, mong đợi…”.
Câu chuyện của nhà thơ, tiến sĩ Nguyễn Huy Hoàng được giới truyền thông đề cập đến đã nhiều. Trước khi gặp ông, tôi cũng đã từng được nghe kể câu chuyện của ông. Biết đâu đấy, thông qua một bài báo, một mẩu tin nhắn, một dòng chia sẻ trên mạng xã hội hoặc bất cứ đâu đó, sẽ giúp gia đình ông tìm thấy một dấu hiệu về người con gái đầu lòng mất tích đã 22 năm có lẻ của mình.
Theo dòng hồi tưởng, ông kể lại câu chuyện mà ông đã thuộc từng lời bởi nó đã đi theo ông suốt những bữa ăn, ám ảnh ông trong từng giấc ngủ. Đôi khi ông chỉ mong rằng, đó chỉ là một giấc mơ độc địa và là một cơn ác mộng thoáng qua trong một giấc ngủ dài.
Nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng sinh 1953 tại Can Lộc, Hà Tĩnh. Ông được đào tạo học hành căn bản, học chuyên văn từ nhỏ, lại sinh ra trong một dòng tộc có truyền thống khoa cử, văn chương Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Huy Hổ…

Sau khi được giữ lại khoa Văn học – ĐH Tổng hợp giảng dạy chừng hơn chục năm, vào quãng năm 90, ông cùng vợ, bà Đặng Kim Tiến được cử đi làm nghiên cứu sinh về văn học Nga tại ngôi trường danh tiếng – ĐH Tổng hợp Lomonosov. Luận án ấy được đánh giá xuất sắc. Cứ đường đường chính chính ra, ông sẽ trở về nước, sẽ có một vị trí trong xã hội, sẽ đào tạo các thế hệ học trò, sẽ hướng dẫn thạc sĩ, tiến sĩ, sẽ được phong Giáo sư, nghĩa là mũ mão cân đai đủ cả. Cho đến nay, ông là tác giả của 7 tập thơ, hai tập truyện ngắn, hai tập Giáo trình giảng dạy, một tập chuyên luận về Gogol dày hơn hai trăm trang và hàng trăm bài báo…

Nhưng rồi năm tháng định mệnh ấy đã có một tai họa ập đến với gia đình ông. Cô con gái Quỳnh Nga sinh năm 1981, theo cha mẹ sang Nga từ năm 11 tuổi, vì những thành tích xuất sắc trong học tập của con nên bố mẹ đã hứa thưởng cho con một chuyến đi chơi biển vào mùa hè năm cháu lên 13 tuổi, học lớp 6. Đang thời điểm bảo vệ luận án hai vợ chồng đều bận rộn nên gửi con cho gia đình người bạn đến nghỉ mát ở bãi biển Sochi, miền Nam nước Nga.
Ở Moscow, giữa lúc đang quay cuồng vì luận án tiến sĩ, nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng nhận được điện thoại từ Sochi của vợ chồng người bạn báo tin con gái ông đã mất tích! Chiều hôm đó, khi vợ chồng người bạn xuống tắm biển, Quỳnh Nga đã ngồi trên bờ nói chuyện với một người phụ nữ Nga. Lúc lên bờ, họ không thấy cô bé đâu nữa…
Ngay khi nhận được cuộc điện thoại ấy, ông đã gửi lại cô con gái thứ hai Nguyễn Thảo Nguyên, sinh năm 1991, cho bà nhũ mẫu người Nga, vượt chặng đường dài hơn 2.000 cây số xuống Sochi tìm Quỳnh Nga. Tuần đầu, không kể ngày đêm, ông lùng sục mọi chốn tìm con.

Cứ như vậy, ông không ăn, không ngủ, không buồn để ý đến bản thân mình. Đến khi tình cờ nhìn thấy mình trong một tấm kính ở cửa hiệu bên đường, ông đã thấy tóc mình bạc trắng. Vợ chồng ông đã thuê một căn phòng ở Sochi sống tạm qua ngày để tìm kiếm con gái trong 6 tháng trời.
Ở thời điểm đó, câu chuyện của gia đình ông đã gây chấn động cả một vùng rộng lớn của nước Nga. Vùng biển Sochi không ngày nào ngớt những tàu, thuyền dò tìm dưới biển. Nhiều người đoán rằng, có thể cô bé đã bị sóng cuốn đi, hoặc đã bị bắt cóc. Trở về Moscow trong nỗi đau khổ tận cùng, ông và vợ vẫn không ngừng tìm kiếm con. Cô con gái đầu lòng bị thất lạc đã làm đảo lộn toàn bộ cuộc sống không chỉ riêng ông mà cả gia đình, đã làm cho toàn bộ cuộc đời ông chuyển theo hướng khác.
Ông và vợ đã từ bỏ mọi thứ dành cho mình ở phía trước để ở lại nước Nga với một niềm hi vọng gặp lại con. Và bằng một niềm tin thiêng liêng, mãnh liệt, ông tin rằng con gái mình vẫn đang còn sống, hiện đang ở đâu đó và sẽ có ngày hội ngộ. Không trừ một tỉnh nào trên đất Nga mà ông không có mặt. Ông còn nhờ bạn bè người Việt, người ngoại quốc tìm manh mối trên khắp các nước thuộc Liên bang Nga hoặc các nước Âu, Á lân cận…

Nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng chia sẻ: “Chúng tôi ở lại thì phải đối mặt với mưu sinh. Tôi không biết làm ăn kinh tế, chỉ có mỗi khả năng viết lách và đối ngoại. Cũng có lần tôi vào làm chân văn phòng cho một công ty người Việt, nhưng thu nhập chẳng đáng là bao, rồi đành trở về nghiệp bút sách. Làm cộng tác viên khoa học ở trường Lomonosov trước đây còn có tiêu chuẩn nhà cửa, nhưng sau này, những chế độ này đã thay đổi. Vợ chồng tôi phải thuê nhà ở ngoài và đi tìm con gái. Tôi đã cố gắng hết sức, đã đi khắp bốn phương, đã ngửa mặt cầu xin khắp chốn, đã chấp nhận một cuộc sống chật vật, đã chịu biết bao nhiêu điều đắng cay mà bút giấy không thể nào tả xiết. Khi mọi thứ đã không ở trong bàn tay mình, tôi chỉ biết phó thác cho mệnh số và treo mảnh lòng xót thương của mình vào chiếc đinh hi vọng. Đêm mùa Đông ở Nga dài như vô tận. Từ 5 giờ chiều, trời đã sẩm tối, đường phố đã lên đèn; mãi đến 9 giờ sáng, khi cảnh vật lờ mờ trong hơi lạnh, thì đèn đường mới tắt, nhường chỗ cho ánh sáng ban ngày hiu hắt như trong cõi mù sương. Đã có không biết bao đêm đông, tôi đứng hàng giờ bên cửa sổ, vai trùm một tấm chăn mỏng ngắm những bông tuyết rơi miên man, chỉ mong chờ có phép lạ nào đó mang con gái về trước mặt mình…”. Rồi những câu thơ đã cho ông vịn hồn mình vào để nguôi ngoai nỗi đau đớn tận tâm can: “Ba không tị với người ta/ Nhà mình phúc mỏng mới ra thế này/ Ai mơ viên mãn, đủ đầy/ Ba cam phận bạc, trông ngày gặp con”. Rồi: “Bỗng trong mưa bụi trắng trời/ Tiếng ai nhắn gọi, hay lời tháng năm/ Dặm về, nẻo vắng xa xăm/ Chiều đông thấm mỏi bước chân độc hành…”, “Đã chớm lạnh cơn mưa đầu tháng chín/ Gió thay chiều, đổi hướng những hàng cây/ Rồi băng giá sẽ phủ đầy sông vắng/ Con ở đâu trên cõi nước Nga này?…”.